Giải quyết tranh chấp số DS343
14/05/2013 3951Hoa Kỳ- Các biện pháp chống bán phá giá đối với tôm nhập khẩu từ Thái Lan
Nguyên đơn: | Thái Lan |
Bị đơn: | Hoa Kỳ |
Các bên thứ ba: | Braxin; Chi lê; Trung Quốc; EU; Ấn Độ; Hàn Quốc; Nhật Bản; Mexico; Việt Nam |
Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn) | Hiệp định ADA (Điều VI nhà kèo cái GATT 1994): Điều 1, 3.1, 3.2, 3.3, 3.4, 3.5, 5.8, 7.1, 7.2, 7.4,7.5, 2, 9.1, 9.2, 9.3, 2.1, 18.1, 2.4, 2.4.2 GATT 1994: Điều X:3(a), VI:2, I:1, II, II:1, III,VI, XI:1, XIII:1, XX |
Ngày nhận được yêu cầu tham vấn | 24/04/2006 |
Ngày lưu hành Báo cáo nhà kèo cái Ban Hội thẩm | 29/01/2008 |
Ngày lưu hành Báo cáo nhà kèo cái Cơ quan Phúc thẩm | 16/07/2008 |
Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật đến ngày 24/02/2010
Tham vấn
Ngày 24/04/2006, Thái Lan yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá mà Hoa Kỳ áp dụng đối với tôm nước ấm đông lạnh (frozen warmwater shrimp) nhập khẩu từ Thái Lan. Cụ thể, Thái Lan cho rằng:
- việc Hoa Kỳ áp dụng phương pháp Zeroing (quy về 0 các biên độ phá giá âm) trong các kết luận sơ bộ, kết luận cuối cùng và sửa đổi kết luận cuối cùng dẫn đến các kết quả biên độ phá giá mà sau đó là thuế chống bán phá giá cao một cách giả tạo đối với tôm nước ấm đông lạnh nhà kèo cái Thái Lan là vi phạm các Điều:
- Điều 1, 2.1, 2.4, 2.4.2, 3.1, 3.2, 3.3, 3.4, 3.5, 5.8, 9.2 và 9.3 nhà kèo cái Hiệp định ADA, và
- Điều II, III, VI:1 và VI:2 nhà kèo cái GATT 1994
- Việc Hoa Kỳ áp dụng yêu cầu kỹ quỹ liên tục đối với tôm nước ấm đông lạnh nhà kèo cái Thái Lan có thể vi phạm các Điều I:1, II, III, XI:1 và XIII:1 nhà kèo cái GATT 1994 và không phù hợp với Điều XX(d) nhà kèo cái GATT 1994.
Ấn Độ (ngày 01/05/2006), Nhật Bản (ngày 02/05/2010), Braxin (ngày 05/05/2006) và Trung Quốc (ngày 08/05/2006) yêu cầu tham gia vào cuộc tham vấn với tư cách các bên thứ ba và đều được Hoa Kỳ chấp thuận.
Giai đoạn Hội thẩm
Ngày 15/09/2006, Thái Lan yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp vụ việc này. Tại cuộc họp ngày 28/09/2006, DSB trì hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm. Tuy nhiên Ban Hội thẩm đã được thành lập sau đó tại cuộc họp nhà kèo cái DSB ngày 26/10/2006.
Braxin, Chi lê, Trung Quốc, EC, Ấn Độ, Nhật bản, Hàn Quốc, Mexico và sau đó là Việt Nam yêu cầu tham gia vào vụ kiện với tư cách các bên thứ ba.
Ngày 19/01/2007, do hai bên không thể thống nhất được về thành phần nhà kèo cái Ban Hội thẩm, Thái Lan đã yêu cầu Tổng Giám đốc WTO chỉ định thành viên cho Ban Hội thẩm. Ngày 26/01/2007, thành phần nhà kèo cái Ban Hội thẩm đã được xác định.
Ngày 27/07/2007, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB rằng họ không thể hoàn thành công việc trong vòng 6 tháng kể từ khi thành lập theo như quy định do bản chất và phạm vi nhà kèo cái vụ việc.
Đến ngày 29/02/2008, Ban Hội thẩm hoàn thành Báo cáo và gửi tới tất cả các thành viên WTO. Trong đó, Ban Hội thẩm:
- ủng hộcác khiếu nại nhà kèo cái Thái Lan rằng việc Hoa Kỳ áp dụng yêu cầu kỹ quỹ liên tục (EBR) đối với tôm nước ấm đông lạnh nhà kèo cái Thái Lan là vi phạm Điều 18.1 nhà kèo cái Hiệp định ADA và Ghi chú nhà kèo cái nó;
- bác bỏlập luận nhà kèo cái Hoa Kỳ rằng việc áp dụng EBR là phù hợp với Điều XX(d) nhà kèo cái GATT 1994.
- đồng tìnhvới khiếu nại nhà kèo cái Thái Lan rằng việc Hoa Kỳ sử dụng phương pháp tính toán biên độ phá giá Zeroing là vi phạm Điều 2.4.2 nhà kèo cái Hiệp định ADA.
- từ chốira phán quyết riêng đối với khiếu nại nhà kèo cái Thái Lan rằng việc áp dụng EBR đối với tôm Thái Lan là vi phạm Điều I, II:1(a), câu đầu tiên và thứ hai nhà kèo cái Điều II:1(b), X:3(a) và XI:1 nhà kèo cái GATT 1994.
Ban Hội thẩm khuyến nghị Hoa Kỳ sửa đổi các biện pháp nhà kèo cái mình cho phù hợp với các nghĩa vụ nhà kèo cái nước này theo Hiệp định ADA và GATT 1994.
Giai đoạn Phúc thẩm
Ngày 17/04/2008, Thái Lan thông báo quyết định kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm môt số vấn đề pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo nhà kèo cái Ban Hội thẩm. Ngày 29/04/2008, Hoa Kỳ cũng thông báo quyết định kháng cáo.
Cơ quan Phúc thẩm xem xét vụ kiện này cùng với vụ kiện số WT/DS345.
Ngày 10/06/2008, Chủ tịch Cơ quan Phúc thẩm thông báo với DSB rằng họ không thể hoàn thành công việc trong vòng 60 ngày do cần thêm thời gian để hoàn thành và biên dịch báo cáo. Cơ quan Phúc thẩm dự kiến hoàn thành công việc việc trước ngày 16/07/2008.
Đến ngày 16/07/2008, Báo cáo nhà kèo cái Cơ quan Phúc thẩm được gửi tới tất cả các thành viên WTO. Trong đó, Cơ quan Phúc thẩm:
- ủng hộkết luận nhà kèo cái Ban Hội thẩm rằng yêu cầu an toàn dẫn đến việc áp dụng EBR đối với sản phẩm tôm nhập khẩu từ Thái Lan là “không hợp lý”;
- đồng tìnhvới kết luận nhà kèo cái Ban Hội thẩm rằng việc áp dụng EBR đối với tôm nhập khẩu từ Thái Lan là “không cần thiết” theo Điều XX(d) nhà kèo cái GATT 1994.
- do đó,ủng hộkết luận nhà kèo cái Ban Hội thẩm rằng việc áp dụng EBR trong vụ kiện liên quan là vi phạm Điều 18.1 nhà kèo cái Hiệp định ADA vì nó vi phạm Ghi chú Điều VI:2 và 3 nhà kèo cái GATT 1994.
Cơ quan Phúc thẩm khuyển nghị DSB yêu cầu Hoa Kỳ sửa đổi các biện pháp nhà kèo cái mình cho phù hợp với các nghĩa vụ nhà kèo cái nước này theo các Hiệp định ADA và GATT 1994.
Tại cuộc họp ngày 01/08/2008, DSB đã thông qua Báo cáo nhà kèo cái Cơ quan Phúc thẩm và Báo cáo nhà kèo cái Ban Hội thẩm đã được sửa đổi.
Thực thi
Ngày 31/10/2008, Hoa Kỳ và Thái Lan thông báo với DSB rằng họ đã đạt được thỏa thuận về khoảng thời gian hợp lý để Hoa Kỳ thực thi các phán quyết và khuyến nghị nhà kèo cái DSB là 8 tháng, hết hạn ngày 01/04/2009.
Tại cuộc họp nhà kèo cái DSB ngày 20/04/2009, Hoa Kỳ thông báo họ đã tiến hành các bước để thực thi các phán quyết và khuyến nghị nhà kèo cái DSB. Thái Lan, mặc dù đánh giá cao các nỗ lực nhà kèo cái Hoa Kỳ, vẫn tỏ ra lo ngại liệu các động thái đó đã thực sự tuân thủ đầy đủ các phán quyết và khuyến nghị nhà kèo cái DSB hay chưa.